CÂU CHUYỆN VỀ VĂN THÙ BỒ TÁT
Vào thời kỳ cuối nhà Ngụy của Nam Bắc triều ở Trung Quốc, núi Ngũ Đài ở Sơn Tây có một ngôi chùa Linh Thứu, mỗi khi đến tháng ba mùa xuân, đều tổ chức lễ Vô Già Trai như thường lệ. Lễ Vô Già Trai là gì? Nghĩa là, bất kể là pháp sư xuất gia, đệ tử cư sĩ chưa xuất gia, dù là thiện nam hay nữ, già hay trẻ, giàu hay nghèo, hay thậm chí là người ăn xin, vào ngày này, đều phải lấy tâm bình đẳng để cúng dường, cung cấp thức ăn cho họ, ăn no một bữa, bình đẳng bố thí, đối xử bình đẳng với tất cả chúng sinh, biểu thị Phật pháp bình đẳng, không có sự phân biệt giữa mình và người. Đây là một ngày tuyệt vời để tưởng nhớ, vì vậy đến tháng ba, mọi người đều đi.
Trong buổi Trai Giới có một người phụ nữ nghèo đến, trên tay bế hai đứa con nhỏ, theo sau là một con chó, ngoài chúng ra cô không có của cải gì thêm. Cô đến hiện trường buổi Lễ Vô Già Trai ở chùa Linh Thứu, nhưng còn chưa tới giờ dùng Trai (chưa đến giờ ăn), cô không một xu dính túi và xấu hổ vì ăn miễn phí, nên lúc đó cô nghĩ: “Tôi lấy cái gì để bố thí đây” cô liền cắt tóc của mình để bày tỏ tấm lòng bố thí (tức là cắt tóc “đây cũng là việc bố thí của tôi”). Cô yêu cầu trụ trì trong chùa rằng: “Thưa Thầy, con chỉ có những sợi tóc này để cũng dường cho Tam Bảo. Xin đừng từ chối”.
Pháp sư nói: "Được rồi, vậy chúng tôi sẽ nhận. Nữ thí chủ, cô từ đâu tới?" Nữ thí chủ đột nhiên nói: "Ta từ nơi xưa tới."
Nhìn thấy câu trả lời của cô như vậy, pháp sư trụ trì cảm thấy nữ thí chủ này có chút kỳ quái. Không ngờ, người phụ nữ đột nhiên lên tiếng hỏi: "Sư phụ, tôi có chuyện gấp phải đi nơi khác, có thể cho tôi chút đồ ăn trước được không?"
Dù thời điểm dùng Trai chưa đến nhưng yêu cầu của nữ thí chủ không thể bị từ chối. Vị trụ trì này tên là pháp sư Pháp Ấn, đây là một câu chuyện có thật được truyền lại từ xưa.
Sau đó pháp sư Pháp Ấn nói: “Được rồi.” Ông ấy rất từ bi lấy ra ba phần thức ăn, chỉ để người phụ nữ và hai đứa con nhỏ có thể ăn một bữa no nê.
Nhưng sau khi ăn xong, người phụ nữ lại nói: “Thưa Thầy, tôi vẫn còn con chó này và nó cũng cần ăn chút gì đó”.
"Ồ, được thôi." Pháp sư trụ trì không còn cách nào khác đành miễn cưỡng lấy thêm một ít thức ăn ra đưa cho người phụ nữ.
Người phụ nữ liền nói: “Thưa Sư phụ, trong bụng con còn có một đứa bé, cũng cần chút thứ gì đó để ăn.” Trụ trì lúc này không nhịn được, tức giận nói: “Cô tới nơi này cầu người xuất gia bố thí Trai thực, mà cô lại tham lam, đạo lý ở đâu ra! Đứa bé trong bụng cô còn chưa ra đời, chẳng lẽ nói nó cũng có thể ăn cơm sao? Nhưng cô cứ đòi, tham ăn ngon. Này cô, cô không nghĩ nó hơi quá đáng à?”
Cô gái nghèo bị khiển trách, lúc này nói một câu kệ:
“Khổ qua liên căn khổ, dưa ngọt triệt đế ngọt. Tam giới vô trứ xứ, trí sử a sư hiềm”.
Bài kệ này muốn nói với mọi người rằng: Rễ mướp đắng cũng là đắng. Nếu là dưa ngọt, ngay cả rễ dưa cũng ngọt. Nhưng trong ba cõi này, những vấn đề này không có cách nào giải quyết được. “Trí sử a sư hiềm” chính là có thể khiến cho những người bố thí và sư phụ ghét bỏ.
Nói xong bài kệ này, Ngài đột nhiên bay lên không trung nhảy lên hư không, thị hiện ra đức tướng của Văn Thù Bồ Tát. Lúc này, con chó bên cạnh biến thành sư tử ngồi dưới của Ngài, hai hài tử lại là hai vị bên cạnh hầu Ngài, trong ánh mây mù mịt lờ mờ, như ẩn như hiện, còn nói một bài kệ khác:
“Chúng sinh học bình đẳng, tâm tùy vạn cảnh ba.
Bách hài đều buông bỏ, há còn yêu ghét sao? “
Chính là nói cho mọi người biết: Chúng sinh chúng ta dốc sức học tâm bình đẳng, nhưng tâm của chúng ta lại theo cảnh giới ở nhân gian mà biến hóa. Chúng ta "trăm hài đều vứt bỏ" (khi chúng ta chết đi, xương cốt của chúng ta cũng sẽ tan tành và trở về với cát bụi), con người chúng ta phải biết loại bỏ tất cả các loại ý niệm không tốt. Vậy thì yêu và ghét còn có ý nghĩa gì nữa chứ?
Ý nghĩa của bài kệ này chính là để cho người học Phật chúng ta phải hiểu được tâm bình đẳng, hôm nay quý vị nói phải bố thí bình đẳng, không có gì đáng trách, nhưng lại không khống chế được sự dao động trong tâm thức của chính mình, nhìn người phụ nữ đang mang thai liền cảm thấy đứa bé trong bụng này không đáng được ăn, cảnh giới của quý vị đang không ngừng lưu chuyển. Mặc dù chúng ta biết rõ mình phải từ bỏ thân xác bên ngoài này và bố thí cho người khác một loại vật phẩm, là để cho tâm của mình có thể bố thí cho người khác, nhưng trong lòng chúng ta còn cất giấu yêu cùng hận, nói cách khác, vì thấy cô ta nghèo khó, vì nhìn thấy cô ấy dắt theo hai đứa con và một con chó, liền nổi lên tâm sân hận, ý của Bồ Tát là: Như vậy thì làm sao có thể nhập Đạo đây?
Khi đó có hơn một ngàn người tham gia Lễ Trai Giới, tận mắt nhìn thấy thánh tích của Bồ Tát Văn Thù, lắng nghe lời kệ cảnh báo của Đại Sĩ, tất cả mọi người đều quỳ ở đó rưng rưng mà khóc, hướng không trung cúng bái đảnh lễ, nói: "Thưa Đại Sĩ, chỉ mong bày tỏ pháp môn bình đẳng đích thực, cũng là để cho chúng con một lòng phụng hành!"
Trong không trung lại truyền đến lời kệ của Bồ Tát:
“Trì tâm như đại địa, cũng như thủy hỏa phong, vô nhị vô phân biệt, cứu cánh như hư không".
Đây chính là nói cho chúng ta biết: "Trì tâm như đại địa", chúng ta ở trên thế giới này, muốn bố thí bằng tấm lòng bình đẳng thì phải đối xử với người và vật bằng tấm lòng bao dung trời đất “cũng như nước, lửa và gió”, nước, lửa và gió đều giống nhau, cả hai đều sẽ diệt độ và biến mất, nên “vô nhị vô phân biệt”, hôm nay dù là nước, dù là lửa hay gió, tất cả đều sẽ mất đi, nên vô nhị vô phân biệt. “Cứu cánh như hư không” đến cùng rồi, chính là hư không vô tánh, đến cuối cùng đều là vô tánh.
Lúc này, pháp sư trụ trì oán hận mình có mắt, mà không nhận ra Phật thật, để bày tỏ sự sám hối chuộc lỗi vì đã xúc phạm đến Bồ Tát, ông vào bếp lấy dao chuẩn bị tự móc mắt mình. Bởi vì ông cảm thấy mình có mắt không tròng, thậm chí Bồ Tát đến mà ông cũng không biết.
Bên cạnh có rất nhiều đệ tử và cư sĩ nói: “Thưa Sư phụ, Thầy không thể làm như vậy được”. “Vâng, thưa Sư phụ, làm như vậy không giúp ích gì, đây là một điều ngớ ngẩn ạ!” “Có rất nhiều cách để chuộc lỗi, sao lại phải khổ sở ra hạ sách này chứ?”. Mọi người nói qua nói lại với nhau và giật lấy con dao từ tay pháp sư trụ trì. Vị pháp sư trụ trì sau đó đã từ bỏ ý định ban đầu của mình và lấy mái tóc của cô gái nghèo (chính là Văn Thù Bồ Tát) bố thí, xây dựng một bảo tháp để cúng dường.
Thời kỳ đầu Vạn Lịch, pháp sư Viên Quảng tiếp nhận chức trụ trì, để trùng tu lại bảo tháp, ở dưới tháp đào ra vài bó Thánh Phát của Đại sĩ (giống như Sri Lanka có chùa Phật Nha, rất nhiều tháp Phật đều có tóc, răng của Bồ Tát), màu sắc (màu tóc của Văn Thù Bồ Tát) giống như màu vàng kim, nhưng nhìn kỹ lại, màu tóc biến hóa bất định. Tòa bảo tháp này hiện tại đang ở phía đông chùa chiền Đại Tháp, đây là dấu tích cổ văn hiện tại trong chùa Linh Thứu còn có được.
Câu chuyện này chính là nói cho chúng ta biết, người ta nói muốn bình đẳng nhưng trong thâm tâm họ vẫn bất bình đẳng. Chúng ta cần hiểu cách tạo ra sự bình đẳng thực sự trong trái tim mình khi sống trên thế giới này. Chúng ta phải yêu thương mẹ của mình, và càng phải yêu mến Quán Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát v.v.. và các vị Bồ Tát, giống như khi chúng ta còn nhỏ nhớ đến mẹ của mình vậy, niệm niệm Quán Thế Âm, niệm niệm các vị Bồ Tát, tự nhiên liền tắt đi tham sân si "tam độc" trong tâm mình. Người không có trí tuệ sẽ mãi mãi ghi hận người khác.
Cho nên Sư phụ nói với mọi người rằng: Nếu quý vị có thể nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chính mình nơi người khác, quý vị chính là người trí tuệ. Nếu có thể rút ra bài học từ người khác, chính là một người trí. Trí tuệ có nghĩa là có giải pháp cho mọi việc và xử lý nó một cách từ tốn, hài hước và bình tĩnh. Tu tâm chính là tu giác ngộ trong tâm, "Giác" là bổn tánh của quý vị, "Ngộ" là năng lượng tích cực của chính mình, dùng năng lượng tích cực của chính mình đi Giác bổn tánh của chính mình, chính là đi trong Phật đạo. Dùng tâm quán chiếu những thói hư tật xấu của mình, thì quý vị mới có thể chiếu kiến được ngũ uẩn giai không. "Quán chiếu" này chính là chiếu kiến, vậy nên quý vị mới có thể sửa đổi những vấn đề của nhân gian, mới có thể buông bỏ và mới có thể giải thoát. Hãy nhớ rằng, giải thoát chính là giác ngộ.